| Tiểu Sử Và Thơ Đoàn Thị Điểm | Chủ đề | Số bài | Bài gửi sau cùng |
---|
| 1077. Dò đon hỏi bước rừng thiền cũ, Rằng Phật còn ngụ ở Lôi Âm. Tính niên rồi lại tủi thầm, Con đường Cực Lạc biết tầm sao ra.
1081. Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ, Trước mặt xem những chỗ sầu than. Nầy là hình ảnh của chàng, Nầy là tiếng khóc của đàn trẻ con.
1085. Nầy là chỗ thiếp còn niên thiếu, Nầy là nơi chàng níu thiếp trì. Nầy là buổi hiệp hồi ly, Nầy là khi khóc khi thì cười mơn.
1089. Nầy là chỗ lời hơn tiếng thiệt, Nầy là nơi cách biệt sanh ly. Nầy là chỗ thiếp chẳng vì, Nầy nơi chàng giận ra đi bỏ nhà.
1093. Nầy là chỗ đôi ta tái hiệp, Nầy là nơi vừa kịp hoà vui. Nầy là chỗ thiếp đương ngồi, Tin nghe chàng đã qui hồi Tiên bang.
1097. Các chỗ ấy dẫy tràn thảm tín, Càng ở gần khó nhín sầu than. Cam tâm nín nẩm gia đàng, Vì con chưa giữ vững vàng qui mô.
1101. Nay tuyết đóng song hồ động lãnh, Đành cửa không gởi mảnh tâm hồn. Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương, Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.
1105. Bước cảnh tịnh đã đành để cẳng, Tóc qui y nửa trắng nửa vàng. Phồn hoa xa mã rộn ràng, Vinh vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.
1109. Ngắm thế cuộc chẳng bằng một giấc, Kiếp phù sinh đặng thất là bao. Nhẫng là đeo thảm chác sầu, Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.
1113. Nào là phép giựt giành quyền lợi, Nào là phương chuộng quới cầu vinh. Thử đem sánh khổ kiếp sanh, Chưa ai thấy đặng phước giành nhiều hơn.
1117. Nào vui gượng do cơn khóc lỡ, Nào là khi chịu tớ làm thầy. Quyền là chi? Lợi là chi? Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.
1121. Nào là lúc ăn cay uống đắng, Nào là khen rồi mắng bao phen. Tuồng đời trọng trọng hèn hèn, Chẳng qua bướm tối mến đèn xôn xao.
1125. Nào chửa đẻ biết bao khổ nhọc, Nào hơn thua theo học sách đời. Tang thương lúc biến khi dời, Trăm năm e cũng một đời thế thôi.
1129. Nào tranh đấu thắng rồi lại thất, Của phù du chứa chất gọi giàu. Thân còn đã quí là bao, Dứt hơi của cải thế nào không hay.
1133. Thiệt thì bỏ, giả vay nên nợ, Mãn căn sanh chưa mở dây oan. Kìa là vua, nọ là quan, Cũng như bọn hát hý tràng bán vui.
1137. Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc, Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm. Cũng như ác thú nhốt hầm, Cắn nhau cho đã nào cần mệnh nhau.
1141. Muốn lấy đạo làm đao hại thế, Toan dùng văn gọi kế sanh nhai. Đường hung ác, nẻo chông gai, Lấn chen vào chốn nghiệt đài gọi ngoan.
1145. Mạnh hiếp yếu lấy gan hung bạo, Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn. Nhẫng lo chác oán mua hờn, Hại nhau chẳng biết nghĩa nhơn thế nào.
1149. Thấy cảnh thế mà đau với thế, Biết thương đời mấy kẻ vì đời. Ngán thay cái kiếp con người, Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.
1153. Thay đạo phục bước xăng lánh thế, Mơi thì kinh, tối kệ giải lòng. Từ bi hứng giọt nhành dương, Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.
1157. Đoạn tình ái đem quăng bể khổ, Bứt hồng duyên tính bỏ non thề. Nầy bờ tục, nọ bến mê, Từ đây không trở lộn về thấy ngươi.
1161. Vì thấy đó phải cười lộn khóc, Sách của ngươi chẳng học mà say. Cửa ngươi cửa đoạ cửa đày, Ghét ngươi ta dứt từ ngày buổi ni.
1165. Lần chuỗi hột từ bi cứu khổ, Nương gió thanh trăng tỏ là nhà. Nước non để bước ta-bà, Sô xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.
1169. Trương thẳng cánh con thuyền Bát Nhã, Cổi đau thương giải quả trừ khiên. Lấy thân rửa thảm lau phiền, Đem công chuộc khách thuyền quyên luỵ tình.
1173. Túi gió trăng thinh thinh rộng mở, Vui hạc cầm hay dở thú riêng. Khi động Thánh, lúc non Tiên, Sớm thì Hải đảo, tối miền Thiên Thai.
1177. Đạp giày cỏ nương cây gậy bá, Mặc áo tơi nón lá che thân. Trừ trần cấu, xủ phất trần, Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân. 1 | 0 | 0 | | | 357. Định hương hoả, hằng bày quí tế, Lập pháp gia, tự kế phụng thờ. Con chàng thiếp trả khi thơ, Dòng chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.
361. Lựa cho học các công các nghệ, Tính cho hay mọi vẻ văn tài. Sĩ, Nông, Công, Cổ sanh nhai, Ngư, Tiều, Canh, Mục làm bài bảo thân.
365. Hễ phải mặt văn nhân tài tử, Dạy con nên vẹn giữ nhơn luân. Văn là thượng sĩ danh thần, Võ thì bạt tuỵ siêu quần quân trung.
369. Quan thì phải tận trung vì chúa, Dân thì hay tập búa Lỗ Ban. Sang thì giữ vững ngai vàng, Hèn thì trừ đảng bạo tàn hại dân.
373. Trọng thì lấy đai cân làm lịnh, Khinh thì lo trừ nghịch làm duyên. Nước non để tuổi cùng tên, Quốc gia khinh trọng bở bền nơi dân.
377. Con thương mẹ dầu vâng lịnh dạy, Thương quê hương trọng ngãi quân thần. Ngọn rau tấc đất là ân, Một dòng một giống lo cần ích chung.
381. Nếu đề đặng tinh trung hai chữ, Vạch lưng con viết thử để dành. Rủi cơn loạn quốc khuynh thành, Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.
385. Dầu rủi phận nợ thân chẳng vẹn, Đạo Cần Vương nêu tiếng thanh cao. Trung thành giữ cõi Nam trào, Hùng anh trước đặng Nguỵ Tào khiếp oai.
389. Trước quốc chánh chia hai tộc chủng, Núi Hoành sơn định phỏng biên cương. Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương, Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.
393. Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp, Văn hoá so cũng kịp tha bang. Xa thơ nay gãy giữa đàng, Con tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.
397. Nào quốc thể, người khi kẻ thị, Nào dân đen, phép quỉ hớp hồn. Nấu sôi cái máu anh phong, An bang tế thế một lòng lo âu.
401. Đấng nam tử đâu đâu cũng nợ, Khắp năm châu khai mở qui mô. Châu lưu tứ hải ngũ hồ, Thơ hương đắc vận cậy nhờ dân sanh.
405. Vùng Nam Hải uy linh nhứt quốc, Cỏ rẽ hai chia đất rấp ranh. Trời còn roi nước hùng anh, Giang sơn là đấy, còn mình ở đâu?
409. Con cũng đứng mày râu dưới thế, Nếu kém phương thiếu thế vận trù. Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu, Tài chi trong kiếp tội tù dã man.
413. Con phải nhớ da vàng máu đỏ, Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc triều. Con Hồng cháu Lạc bao nhiêu, Thiếu tài khiếm đức, định triều an bang.
417. Mẹ dầu phải suối vàng nhắm mắt, Vui thấy con đáng mặt làm trai. Nhục con, con chịu chớ nài, Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.
421. Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng, Quen nghề tham, lại nhũng quan gian. Sâu dân mọt nước bạo tàn, Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.
425. Đem chơn chánh phô bày trừ mị, Nâng niu cho dân khí lẫy lừng. Dân thì biết phận làm dân, Chúa cho đáng chúa, đình thần đáng quan.
429. Trừ đảng dữ tham gian bạo ngược, Diệt những phường mưu chước cầu vinh. Xem dường cuồng khấu biên đình, Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.
433. Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt, Đại trượng phu trước giặc vong thân. Nên danh khai quốc công thần, Nêu tên hậu thế xa gần tặng phong.
437. Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu, Học cho hay trọng yếu miếu đường. Tầng quen cỡi ngựa cầm cương, Trận trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.
441. Lựa những mặt tài tình thọ giáo, Học cho thông mối đạo quân thần. Trương Lương dâng dép ba lần, Chút công ấy định Hớn Tần nên hư.
445. Trọng Ni nhận vi sư Hạng Thác, Học tinh thần khai phát Nho tông. Gẫm coi tổn bấy nhiêu công, Làm cho thiên hạ đại đồng trí tri.
449. Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ, Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu. Học hay kế nhiệm mưu mầu, Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.
453. Học đặng định chánh tà giả thiệt, Học cho thông đặc biệt hư nên. Học gan sắt đá cứng bền, Học cho đủ chước xây nền Nam phong.
457. Học cho rộng giao thông tứ xứ, Học cho cùng xử sự ngoại lân. Học cho đúng bậc tài thần, Ưu quân ái quốc vua cần dân nghinh. 2 | 0 | 0 | | | 597. Gái mẹ dạy ân cần cho lắm, Đừng để mình luỵ đến sông Tương. Bông dầu đẹp, khá gìn hương, Quí chi liễu ngõ hoa tường trao duyên.
601. Đóng chặt cửa giữ nguyên trinh tiết, Trọng thân danh bền nét đào yêu. Phụng lầu gác quyển chờ tiêu, Gieo cầu cho đáng, nhiễu điều gói gương.
605. Đừng đứng dựa sông Tương nhắn khách, Đừng trông trăng hỏi ngạch Cung Thiềm. Đừng đề thi lá thơ chim, Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.
609. Con khá nhớ hồng nhan phận mỏng, Đừng làm cho thẹn bóng trăng xuân. Hồng quần tài sắc đa truân, Vào vòng bạc phận, chi mong trọn nguyền.
613. Hoa phong nhuỵ cung Tiên cũng mến, Gấm lót đường trọng tiếng cũng nhơ. Nhà vàng phận quí khi thơ, Gót sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.
617. Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ, Chốn phòng the cứ xủ rèm là. Vườn thu giấu dạng Hằng Nga, Hải đường nở muộn mặn mà ái phong.
621. Phàm phận gái đứng hàng khuê các, Phải trau tria tướng hạc hình mai. Chín tầng cửa đóng then gài, Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.
625. Đối với khách đồng bàn đồng tuổi, Nhớ cho hay lời nói giọng cười. Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi, Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.
629. Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách, Công chỉ kim, đèn sách học hay. Trăm nghề dầu chẳng đủ tài, Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.
633. Sửa từ nết ngày thâu tập tánh, Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô. Xấu xa rách rưới loã lồ, Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.
637. Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé, Rán theo cha học lễ học văn. Phép xưa tùng phụ đã rằng, Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.
641. Thánh xưa dạy từ câu nói hiếu, Đạo thờ thân chầm khíu nên kinh. Tích xưa nhắc đến Đề Oanh, Thương cha nên phải bán mình kêu oan.
645. Bến nước gái mơ màng trong đục, Đếm mười hai hoạ phúc khó lừa. Xem cha cư xử mà ngừa, Phòng sau cho khỏi đổ thừa lỡ duyên.
649. Cao niên biết tuyển hiền đáng mặt, Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình. Sự đời thấu rõ dạng hình, Trá ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.
653. Đợi nơi cửa khách tìm thức ngọc, Đừng đỗ đường rời bốc đoá hoa. Trông người so sánh với ta, Lường tài cân sắc hiệp hoà mới nên.
657. Ai nam tử giữ bền tơ tóc, Nhiều người hay lừa lọc câu thề. Trước khen sau ắt có chê, Ghi tâm tánh đức, kiếm bề phụ nhau.
661. Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh, Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ. So mình nắm dễ tóc tơ, Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.
665. Nét xuân sắc mấy hồi là trọng, Xuân lỡ rồi khó mộng xuân nguyên. Thà cho đáng mặt thuyền quyên, Đừng làm cầm sắt ra duyên bĩ bàng.
669. Khi gặp đặng phải trang tài mạo, Hoặc trao trâm đắp áo làm tin. Thì toan giữ vẹn chung tình, Đưa thoi đừng để lỗi mình nữ trung.
673. Đến lúc đã chung phòng hoà hiệp, Phải tùng phu là phép xưa nay. Mạnh Quang tích trước ghi tài, Tề mi vẹn đạo chẳng nài khổ thân.
677. Vợ Châu Công đình thần mạng phụ, Ở thôn quê lam lụ làm ăn. Chồng thì triều nội cao sang, Vợ lo canh cửi cơ hàn tấm thân.
681. Giúp chồng trọn ân cần nhiếp chánh, Mới nên trang chúa thánh tôi hiền. Vợ không tham nhũng kim tiền, Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.
685. Phạm trọng Yêm mấy lần xa vợ, Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên. May duyên gặp đặng vợ hiền, Thanh liêm chánh trực giữ bền lòng son.
689. Phải căn nợ cách non cũng gặp, Lỡ trái duyên vội gấp ra hư. Con xem từ trước đến chừ, Đấng anh hùng gặp anh thư mấy người?
693. Dầu đẹp xấu để đời luận biện, Vui duyên con, thân miễn an vui. Đừng chê chồng phận thiệt thòi, Đáng danh quân tử phải người lang quân.
697. Chữ hằng dạy thanh xuân bất tái, Vợ người rồi danh gái hết kêu. Noi gương đức tánh Nhị Kiều, Dở dang Du Sách, giữ điều tiết trinh. , | 0 | 0 | | | 01. Dụng văn hoá trau tria nữ phách, Lấy kinh luân thúc thách quần hồng. Gươm thư giúp sức gươm hùng, Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.
05. Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học, Dầu chí thân tơ tóc cũng khi. Tinh thần cao thấp nhờ thi, Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.
09. Chinh phụ trước treo nên giá quí, Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh. Thêm duyên chước quí giao tình, Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.
. | 0 | 0 | | | 13. Nấu kinh sử ra mùi son phấn, Cầm bút nghiên đặng thắm má đào. Quần xoa đỡ ngọn binh đao, Xây hình thục nữ giặm màu nước non.
17. Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái, Chốn quyền môn nữ lại vẫn không. Vật chơi ở chốn khuê phòng, Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.
21. Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng, Đạo phụ cơ đã nặng cho mình. Duyên may chồng đã nghĩ tình, Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?
25. Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận, Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng. Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân, Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.
29. Trên lo thảo, giữa hoà, dưới thuận, Ngoài nên danh, trong vững mối giềng. Nỗi trông hương hoả giữ bền, Giúp nên chồng có phẩm quyền cao sang.
33. Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ, Huống để công đến ngõ Khổng Trình. Rừng Nho biển Thánh thinh thinh, Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.
37. Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng, Tế tông đường lo cúng lo đơm. Kiến thân viếng sớm thăm hôm, Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.
41. Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ, Kiêng vật ăn đặng để nuôi con. Còn con nòi giống chồng còn, Mảnh thân đành chịu hao mòn với ai?
45. Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc, Dâng hình hoa treo mắt bướm ong. Nào là hương đượm lửa nồng, Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.
49. Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu, Vẽ cho hay mày liễu má đào. Thương gìn lúc ốm khi đau, Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.
53. Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu, Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co. Không toan sớm đói chiều no, Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.
57. Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng, Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh. Mảng trong thấm nghĩa nặng tình, Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.
61. Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận, Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm. Phòng đào giữ rủi rơi trâm, Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.
65. Thử từ nết khi chung lúc chạ, Gióng từ hơi hoà nhã tơ loan. Chiều vui dưới trướng ngoài màn, Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.
69. Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng, Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi. Sợ cơn giông gió tơi bời, Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.
73. Che đậy kín tường đông ong bướm, Giấu nhặt nghiêm nhuỵ tướng hương hình. E khi vách có âm thinh, Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.
77. Giao thân cứ gần kề kẻ thiết, Ép nhớ thương làm điếc làm đui. Mặc người cha mẹ dễ duôi, Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.
81. Hiểu thương ghét giả cam phận dại, Biết nên hư chẳng cãi cho cùng. Nên thì an phận kiếm cung, Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.
85. Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy, Giữa cửa công, phải quấy đồng thân. Vinh thì chàng mão thiếp cân, Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.
89. Lấy khổ cực làm bài thuốc mến, Dụng đau thương rù quến thâm tình. Dầu chàng đổi dạ én anh, Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.
93. Nâng khăn trấp giải buồn quân tử, Hầu tửu trà giấc ngủ không an. Chàng vui thiếp cũng vui càn, Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.
97. Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi, Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời. Chàng thì biển cả vơi vơi, Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.
101. Nếu gặp phước bố kinh đáng khách, Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu. Rủi duyên gặp phải thường phu, Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.
105. Khi lịch sắc trao trâm đáng giá, Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời. Vẻ hồng mắc mỏ bao mươi, Đưa cho quân tử trọn đời chủ trương.
109. Nhuỵ đương nở mùi thơm ngào ngạt, Dâng hình hoa lo lót con ong. Trăm năm kim cải cũng chồng, Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.
113. Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa, Đạo phu thê như đũa nên đôi. Dầu cho lúc đứng khi ngồi, Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô. . | 0 | 0 | |
Chủ đề | Trả lời | Tác giả | Xem | Bài gửi sau cùng |
---|
No message. | |
| | Đang truy cập Diễn Đàn này: Không
| Người Điều Hành: | Không | Permissions in this forum: | Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| Đang truy cập Diễn Đàn này: Không
| |
| | Bài viết mới Bài viết mới [được ưa thích] Bài viết mới [đã bị khoá] | Không có bài viết mới Không có bài viết mới [được ưa thích] Không có bài viết mới [đã bị khoá] | Thông Báo Diễn Đàn Văn Thơ Diễn Đàn Văn Thơ
|
|
| |