| 357. Định hương hoả, hằng bày quí tế, Lập pháp gia, tự kế phụng thờ. Con chàng thiếp trả khi thơ, Dòng chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.
361. Lựa cho học các công các nghệ, Tính cho hay mọi vẻ văn tài. Sĩ, Nông, Công, Cổ sanh nhai, Ngư, Tiều, Canh, Mục làm bài bảo thân.
365. Hễ phải mặt văn nhân tài tử, Dạy con nên vẹn giữ nhơn luân. Văn là thượng sĩ danh thần, Võ thì bạt tuỵ siêu quần quân trung.
369. Quan thì phải tận trung vì chúa, Dân thì hay tập búa Lỗ Ban. Sang thì giữ vững ngai vàng, Hèn thì trừ đảng bạo tàn hại dân.
373. Trọng thì lấy đai cân làm lịnh, Khinh thì lo trừ nghịch làm duyên. Nước non để tuổi cùng tên, Quốc gia khinh trọng bở bền nơi dân.
377. Con thương mẹ dầu vâng lịnh dạy, Thương quê hương trọng ngãi quân thần. Ngọn rau tấc đất là ân, Một dòng một giống lo cần ích chung.
381. Nếu đề đặng tinh trung hai chữ, Vạch lưng con viết thử để dành. Rủi cơn loạn quốc khuynh thành, Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.
385. Dầu rủi phận nợ thân chẳng vẹn, Đạo Cần Vương nêu tiếng thanh cao. Trung thành giữ cõi Nam trào, Hùng anh trước đặng Nguỵ Tào khiếp oai.
389. Trước quốc chánh chia hai tộc chủng, Núi Hoành sơn định phỏng biên cương. Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương, Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.
393. Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp, Văn hoá so cũng kịp tha bang. Xa thơ nay gãy giữa đàng, Con tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.
397. Nào quốc thể, người khi kẻ thị, Nào dân đen, phép quỉ hớp hồn. Nấu sôi cái máu anh phong, An bang tế thế một lòng lo âu.
401. Đấng nam tử đâu đâu cũng nợ, Khắp năm châu khai mở qui mô. Châu lưu tứ hải ngũ hồ, Thơ hương đắc vận cậy nhờ dân sanh.
405. Vùng Nam Hải uy linh nhứt quốc, Cỏ rẽ hai chia đất rấp ranh. Trời còn roi nước hùng anh, Giang sơn là đấy, còn mình ở đâu?
409. Con cũng đứng mày râu dưới thế, Nếu kém phương thiếu thế vận trù. Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu, Tài chi trong kiếp tội tù dã man.
413. Con phải nhớ da vàng máu đỏ, Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc triều. Con Hồng cháu Lạc bao nhiêu, Thiếu tài khiếm đức, định triều an bang.
417. Mẹ dầu phải suối vàng nhắm mắt, Vui thấy con đáng mặt làm trai. Nhục con, con chịu chớ nài, Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.
421. Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng, Quen nghề tham, lại nhũng quan gian. Sâu dân mọt nước bạo tàn, Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.
425. Đem chơn chánh phô bày trừ mị, Nâng niu cho dân khí lẫy lừng. Dân thì biết phận làm dân, Chúa cho đáng chúa, đình thần đáng quan.
429. Trừ đảng dữ tham gian bạo ngược, Diệt những phường mưu chước cầu vinh. Xem dường cuồng khấu biên đình, Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.
433. Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt, Đại trượng phu trước giặc vong thân. Nên danh khai quốc công thần, Nêu tên hậu thế xa gần tặng phong.
437. Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu, Học cho hay trọng yếu miếu đường. Tầng quen cỡi ngựa cầm cương, Trận trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.
441. Lựa những mặt tài tình thọ giáo, Học cho thông mối đạo quân thần. Trương Lương dâng dép ba lần, Chút công ấy định Hớn Tần nên hư.
445. Trọng Ni nhận vi sư Hạng Thác, Học tinh thần khai phát Nho tông. Gẫm coi tổn bấy nhiêu công, Làm cho thiên hạ đại đồng trí tri.
449. Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ, Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu. Học hay kế nhiệm mưu mầu, Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.
453. Học đặng định chánh tà giả thiệt, Học cho thông đặc biệt hư nên. Học gan sắt đá cứng bền, Học cho đủ chước xây nền Nam phong.
457. Học cho rộng giao thông tứ xứ, Học cho cùng xử sự ngoại lân. Học cho đúng bậc tài thần, Ưu quân ái quốc vua cần dân nghinh.
| 0 | 0 | |